Vitamin A đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì thị lực của bạn. Nếu không có nó, bạn sẽ bị mù.

Các loại Vitamin A

Vitamin A không phải là một hợp chất đơn lẻ. Đúng hơn, nó là một nhóm các hợp chất hòa tan trong chất béo được gọi chung là retinoids.

Dạng vitamin A phổ biến nhất trong chế độ ăn uống là retinol. Các dạng khác – axit retinal và retinoic – được tìm thấy trong cơ thể, nhưng không có hoặc hiếm gặp trong thực phẩm.

Vitamin A2 (3,4-dehydroretinal) là một dạng thay thế, ít hoạt tính hơn được tìm thấy trong cá nước ngọt

Vai trò và chức năng của Vitamin A

Vitamin A hỗ trợ nhiều khía cạnh quan trọng của chức năng cơ thể, bao gồm:

  • Duy trì thị lực: Vitamin A cần thiết để duy trì các tế bào cảm nhận ánh sáng trong mắt và hình thành nước mắt.
  • Chức năng miễn dịch: Thiếu vitamin A làm suy giảm chức năng miễn dịch, làm tăng khả năng bị nhiễm trùng.
  • Sự phát triển của cơ thể: Vitamin A cần thiết cho sự phát triển của tế bào. Sự thiếu hụt có thể làm chậm hoặc ngăn cản sự phát triển ở trẻ em.
  • Sự phát triển của tóc: Nó cũng rất quan trọng cho sự phát triển của tóc. Sự thiếu hụt sẽ dẫn đến rụng tóc hoặc rụng tóc.
  • Chức năng sinh sản: Vitamin A duy trì khả năng sinh sản và rất cần thiết cho sự phát triển của thai nhi.

Nguồn cung cấp

Vitamin A chỉ có trong thực phẩm có nguồn gốc động vật. Các nguồn thực phẩm tự nhiên chính là gan, dầu gan cá và bơ.

Vitamin A cũng có thể được lấy từ một số chất chống oxy hóa carotenoid được tìm thấy trong thực vật. Chúng được gọi chung là provitamin A.

Hiệu quả nhất trong số này là beta-carotene, có nhiều trong nhiều loại rau, chẳng hạn như cà rốt, cải xoăn và rau bina.

Lượng vitamin A được khuyến nghị hàng ngày là 3.000 IU (900 mcg) đối với nam giới trưởng thành và 2.333 (700 mcg) đối với phụ nữ. Đối với trẻ em, nó dao động từ 1.000 IU (300 mcg) đến 2.000 IU (600 mcg).

Thiếu vitamin A

Ở VIệt Nam và một số nước đang phát triển, sự thiếu hụt vitamin A rất phổ biến do đa dạng thực phẩm bị hạn chế. Nó phổ biến ở những nhóm dân cư có chế độ ăn uống chủ yếu là gạo tinh chế, khoai tây trắng hoặc sắn và thiếu thịt, chất béo và rau.

Một triệu chứng phổ biến của sự thiếu hụt sớm bao gồm bệnh quáng gà. Khi tiến triển, nó có thể dẫn đến các tình trạng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như:

  • Khô mắt: Sự thiếu hụt nghiêm trọng có thể gây ra bệnh viêm nhãn cầu, một tình trạng đặc trưng bởi khô mắt do giảm sự hình thành nước mắt.
  • Mù: Thiếu vitamin A nghiêm trọng có thể dẫn đến mù. Trên thực tế, nó là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây mù lòa trên thế giới.
  • Rụng tóc: Nếu thiếu vitamin A, bạn có thể bắt đầu rụng tóc.
  • Các vấn đề về da: Sự thiếu hụt dẫn đến tình trạng da được gọi là tăng sừng hoặc da thịt ngỗng.
  • Chức năng miễn dịch kém: Tình trạng kém hoặc thiếu hụt vitamin A khiến mọi người dễ bị nhiễm trùng.

Độc tính vitamin A

Dùng quá liều vitamin A dẫn đến một tình trạng bất lợi được gọi là tăng vitamin A. Hiếm gặp nhưng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.

Nguyên nhân chính của nó là do bổ sung quá liều lượng vitamin A từ các chất bổ sung, gan hoặc dầu gan cá. Ngược lại, bổ sung tiền vitamin A như beta-carotene không gây ra chứng tăng vitamin A. Nên cân nhắc bổ sung Beta-carotene thay vì bổ sung Vitamin A.

Các triệu chứng và hậu quả chính của nhiễm độc bao gồm mệt mỏi, nhức đầu, khó chịu, đau dạ dày, đau khớp, chán ăn, nôn mửa, mờ mắt, các vấn đề về da và viêm nhiễm ở miệng và mắt.

Nó cũng có thể dẫn đến tổn thương gan, mất xương và rụng tóc. Ở liều lượng cực cao, vitamin A có thể gây tử vong.

Mọi người nên tránh vượt quá giới hạn trên cho lượng tiêu thụ, là 10.000 IU (900 mcg) mỗi ngày đối với người lớn.

Lượng cao hơn, hoặc 300.000 IU (900 mg), có thể gây ra chứng tăng vitamin A cấp tính ở người lớn. Trẻ em có thể gặp phải những tác động có hại với lượng thấp hơn.

Khả năng chịu đựng của cá nhân thay đổi đáng kể. Trẻ em và những người mắc các bệnh về gan như xơ gan và viêm gan có nguy cơ gia tăng và cần phải chăm sóc cẩn thận hơn.

Phụ nữ mang thai cũng nên đặc biệt cẩn thận, vì vitamin A liều cao có thể gây hại cho thai nhi. Liều thấp tới 25.000 IU mỗi ngày có liên quan đến dị tật bẩm sinh.